GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU TÁC ĐỘNG CỦA EHP (EHP VI BÀO TỬ TRÙNG)

EHP, hay còn gọi là vi bào trùng tử ở gan tụy (HPM), là một bệnh do ký sinh trùng Enterocytozoon hepatopenaei gây ra. Dù đã biết rõ các con đường lây nhiễm từ tôm bố mẹ, môi trường nuôi, và quá trình ương, bệnh EHP vẫn đang gây ra nhiều thiệt hại cho ngành nuôi tôm. Điều này cho thấy, việc kiểm soát và phòng ngừa EHP đang là một thách thức lớn.

EHP, hay vi bào trùng tử gan tụy, là một loại ký sinh trùng đơn bào gây bệnh trên tôm. Tác nhân gây bệnh chính là bào tử của ký sinh trùng Enterocytozoon hepatopenaei. Khi xâm nhập vào cơ thể tôm, bào tử sẽ phát triển và nhân lên nhanh chóng trong tế bào gan tụy, gây tổn thương nghiêm trọng đến hệ tiêu hóa của tôm.

Điều này dẫn đến tôm chậm lớn, giảm khả năng hấp thu thức ăn và dễ mắc các bệnh khác. EHP  lây lan chủ yếu qua đường tiêu hóa khi tôm ăn phải thức ăn hoặc nước bị nhiễm bào tử. Vòng đời phức tạp của ký sinh trùng này cùng với khả năng kháng thuốc cao đã khiến việc kiểm soát EHP trở thành một thách thức lớn đối với ngành nuôi tôm.

Mặc dù đã có sẵn các biện pháp hợp lý để giảm thiểu sự lây lan của loại tác nhân gây bệnh bắt buộc này trên tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) (và các loài khác), nhưng nó vẫn tiếp tục lây lan. Tác động của nó rất đáng kể và đang gia tăng. Đây không phải là một tác nhân gây bệnh mới. Lần đầu tiên nó được báo cáo cách đây gần 20 năm. Tôi đã viết về nó lần đầu tiên vào năm 2015 (“Vi bào trùng tử ảnh hưởng đến sản xuất tôm – nỗ lực của ngành tập trung vào kiểm soát, không phải diệt trừ”, Global Aquaculture Advocate, trang 16-17, tháng 3/tháng 4 năm 2015).

Đến năm 2023, chúng ta ngày càng nhận được nhiều báo cáo về những tác động nghiêm trọng. Cần phải có sự tích lũy bào tử trong cơ thể vật nuôi để các triệu chứng đạt đến mức có thể nhận thấy, và khi đó tác động mới trở nên rõ ràng. Tôm phát triển chậm nếu có và vẫn tiếp tục tiêu thụ thức ăn. Tôm không phát triển đồng đều và ngày càng dễ bị nhiễm các tác nhân gây bệnh cơ hội. Hội chứng phân trắng đã được liên kết với sự hiện diện của vi bào tử nấm này, cùng với một số loài vi khuẩn như Propionigenium và một số vi khuẩn thuộc nhóm vibrio.

Hình 1. Sự thay đổi kích thước EHP trong một ao bị nhiễm bệnh. Ảnh của Andy Shinn cho tạp chí nuôi trồng thủy sản châu Á Thái Bình Dương.

Có mối quan hệ rõ ràng giữa mật độ nuôi và mức độ nghiêm trọng của bệnh, trong đó các mô hình sản xuất với mật độ nuôi thấp thường gặp ít vấn đề hơn. Hệ thống nuôi với mật độ cao lại gặp phải các vấn đề nghiêm trọng hơn. Điều này có thể được lý giải rằng trong môi trường nơi tôm được nuôi với mật độ dày đặc, khả năng các bào tử lây lan giữa các cá thể sẽ cao hơn. Nếu không áp dụng các biện pháp phòng ngừa để hạn chế lượng bùn tích tụ trong ao nuôi, hồ chứa và các khu vực liên quan đến sản xuất, tải lượng bào tử có thể đạt đến mức mà ngay cả các mô hình sản xuất với mật độ thấp cũng bị ảnh hưởng lâu dài bởi EHP.

Tôm phải mang một lượng lớn bào tử trong cơ thể trước khi bị tác động. Sau đó, sẽ xuất hiện tình trạng chậm lớn và tiêu thụ thức ăn quá mức. Trong khi một số loại vi bào tử nấm khác có thể bị ức chế bằng một số loại thuốc nhất định, EHP kháng với các loại thuốc này (tương tự như hầu hết các vi bào tử nấm khác. Cách duy nhất để kiểm soát tác nhân gây bệnh này là ngăn chặn và kiểm soát tải lượng bào tử thông qua các biện pháp an toàn sinh học hợp lý. Bảng 1 trình bày một số biện pháp này.

Sử dụng hỗn hợp vi khuẩn độc quyền Biopro Tablet của chúng tôi, được sản xuất dưới dạng viên nén tiện lợi, để giảm lượng chất hữu cơ tích tụ trong suốt chu kỳ nuôi. Khách hàng trên toàn thế giới đang áp dụng phương pháp nhắm mục tiêu này để giảm tải lượng chất hữu cơ tích tụ trong ao nuôi. Bất kỳ biện pháp nào có thể thực hiện để giảm tải lượng bào tử đều là con đường duy nhất để giảm thiểu tác động vào lúc này. Việc chọn lọc di truyền có thể giúp tạo ra các giống tôm có khả năng chống lại sự nhiễm bào tử hoặc thậm chí kháng thuốc. Điều này có thể trở thành nhiệm vụ dễ dàng hoặc bất khả thi. Chỉ có thời gian mới trả lời được. Hiện không có loại thuốc nào có thể loại bỏ hoàn toàn tải lượng bào tử lớn tích tụ trong cơ thể tôm.

Cũng không có giải pháp nhanh chóng nào đạt được sự chấp thuận theo quy định của các quốc gia nhập khẩu. Cách duy nhất để xử lý vấn đề hiện tại là đẩy lùi nó càng xa càng tốt, tức là kiểm soát mức độ bào tử ở tất cả các giai đoạn của quá trình và thực hiện các bước cần thiết để đảm bảo điều này.

Sự khuếch đại tác nhân gây bệnh thông qua tôm bố mẹ đến tôm giống (PL) rồi lan sang các trại nuôi đã khiến ngành nuôi tôm thiệt hại hàng chục tỷ USD trong ba thập kỷ qua. Để nuôi tôm trở nên bền vững, chu kỳ này cần phải bị phá vỡ. Hiện đã có những tiến bộ, nhưng vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Việc tăng cường giám sát sản xuất tôm bố mẹ ở nhiều quốc gia là một khởi đầu tốt. Quy trình kiểm tra mầm bệnh cần phải toàn diện.

 Hình 2. Hình ảnh bào tử của EHP nhờ sự cung cấp của Tim Flegel

 

Nhiều tác nhân gây bệnh bị bỏ sót vì lý do này. Việc xác định sự có mặt hay không của một mầm bệnh trên tôm bố mẹ được nuôi trong môi trường an toàn sinh học không nên dựa vào phương pháp lấy mẫu theo quần thể. Tất cả các cá thể tôm bố mẹ cần phải được kiểm tra. Công nghệ hiện nay đã cho phép thực hiện điều này với chi phí hợp lý, mặc dù điều này sẽ tăng gấp đôi giá thành của hầu hết tôm bố mẹ thương mại.

Việc nuôi tôm bố mẹ trong ao đang là một trong những nguyên nhân chính gây ra các dịch bệnh trong ngành nuôi tôm. Để giải quyết vấn đề này, việc chuyển đổi sang nuôi tôm bố mẹ trong bể là một giải pháp tối ưu. Đây không chỉ là một quyết định kinh tế mà còn là một bước đi cần thiết để đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành nuôi tôm.

EHP là một thách thức lớn đối với ngành nuôi tôm. Mặc dù chưa có giải pháp hoàn toàn triệt để, nhưng việc áp dụng các biện pháp phòng ngừa như kiểm soát chất lượng nước, sử dụng tôm giống khỏe mạnh và thực hiện các quy trình an toàn sinh học nghiêm ngặt có thể giúp giảm thiểu thiệt hại do bệnh gây ra.

Có hai cách để đảm bảo rằng tôm bố mẹ không mang bào tử EHP ngay từ đầu. Đó là kiểm tra và theo dõi hiệu suất của tôm trong thực tế, tức là lịch sử nuôi. Kiểm tra là điều cần thiết. RT-PCR là một công cụ mạnh mẽ, nhưng nó có những hạn chế nghiêm trọng giống như tất cả các phương pháp xét nghiệm dựa trên quần thể khác của PCR. Các mồi thử (primer) phải đặc hiệu, nếu không sẽ dẫn đến kết quả dương tính giả.

Mẫu mô được lấy phải chứa tác nhân gây bệnh cần kiểm tra. Nếu mẫu quá nhỏ hoặc nhắm đến các mô chưa bị nhiễm ở giai đoạn đầu của bệnh, có thể dẫn đến kết quả âm tính giả. Ngay cả khi những vấn đề này không xảy ra, việc sử dụng PCR trong xét nghiệm quần thể vẫn là một bài toán thống kê.

Người ta sẽ lấy mẫu từ một số cá thể và tiến hành kiểm tra. Tuy nhiên, phần lớn cá thể trong quần thể không được kiểm tra. Với cách tiếp cận này, không thể chắc chắn 100% rằng EHP không tồn tại ở một mức độ nào đó. Đối với tôm giống (PL), điều này có thể hiểu được, nhưng đối với tôm bố mẹ thì không.

Theo dõi ấu trùng và tôm giống (PL) từ mỗi lứa đẻ là điều cần thiết. Nếu kết quả kiểm tra PCR định kỳ cho thấy dương tính, chúng cần phải bị tiêu hủy và phải xem xét khả năng mầm bệnh tồn tại trong tôm bố mẹ. Nếu kết quả “sạch”, hiệu suất nuôi thực tế trên trại sẽ cung cấp thêm các manh mối.

Nếu là vấn đề nghiêm trọng, thời điểm xuất hiện sớm sẽ cho biết tải lượng bào tử. Nếu bệnh xuất hiện ngay sau khi thả giống, điều đó cho thấy tải lượng bào tử đã cao ngay từ đầu.

Quản lý vật nuôi đúng cách là yếu tố thiết yếu để đảm bảo tính bền vững. Nếu các biện pháp trên trở thành quy trình thường lệ, tác động của virus đốm trắng (WSSV) và nhiều bệnh khác sẽ được giảm đáng kể. Có lẽ thông điệp quan trọng nhất cần rút ra ở đây là: việc bỏ qua những thực hành này, cắt giảm quy trình, hy vọng bệnh tự biến mất hoặc tìm kiếm những giải pháp thần kỳ sẽ chỉ đảm bảo rằng các vấn đề về bệnh dịch luôn tồn tại trong ngành nuôi tôm.

 

Stephen G. Newman, 2024

BQQ dịch